Trong một phân tích hồi cứu tuần tự, hồ sơ bệnh án của 311 trẻ sinh non được xem xét, 232 trẻ trong những năm trước khi giới thiệu Lactobacillus reuteri Protectis trong dự phòng (tháng 1/2004 – tháng 6/2009) và 79 trẻ được sử dụng dự phòng Lactobacillus reuteri Protectis (tháng 6/2009 – tháng 4/2011).
So sánh tỷ lệ NEC ở trẻ sinh non có cân nặng khi sinh ≤1000g. Tỷ lệ NEC thấp hơn đáng kể ở trẻ sơ sinh sử dụng Lactobacillus reuteri Protectis, 2/79 trẻ sơ sinh (2.5%) so với 35/232 (15.1%) ở nhóm trẻ không điều trị (p = 0.0475). Tỷ lệ khởi phát muộn của nhiễm vi khuẩn gram âm hoặc nhiễm nấm không khác biệt đáng kể giữa nhóm được bổ sung và nhóm không được bổ sung, 22.8 so với 31.
Không có tác dụng bất lợi nào liên quan đến việc sử dụng Lactobacillus reuteri Protectis được ghi nhận. Việc bổ sung dự phòng Lactobacillus reuteri Protectis giúp tránh 1 trường hợp NEC cho mỗi 8 trẻ được điều trị (NNT = 8).
NEC liên quan đến điều trị nội khoa có tỷ lệ 6.9% ở trẻ sơ sinh trước khi có hướng dẫn dự phòng và 0% sau khi dự phòng Lactobacullus reuteri Protectis hàng ngày, một sự giảm có ý nghĩa (P= 0.0143). Hiệu quả kết hợp của NEC ngoại khoa và tử vong do NEC (với những trường hợp phẫu thuật) giảm từ 8.2 xuống 2.5%, không có ý nghĩa thống kê (p = 0.1774).
Kết luận:
Bổ sung dự phòng Lactobacillus reuteri Protectis như biện pháp phòng ngừa NEC dẫn đến làm giảm đáng kể có ý nghĩa thông kê trong NEC, từ 15.1 xuống 2.5%. Điều này tương ứng tránh được một trường hợp NEC cho mỗi 8 trẻ sơ sinh được điều trị. Lợi ích rõ đối với NEC nội khoa và tử vong liên quan đến NEC.